Thursday, May 17, 2007

TĂNG TRƯỞNG CHO AI?

Sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây không chỉ được người dân trong nước ghi nhận mà còn làm cho cộng đồng thế giới thán phục. Tờ New York Times mới đây đánh giá cao việc Việt Nam kiên trì theo đuổi chính sách đổi mới kể từ những năm 1990 và cho rằng Việt Nam đã thành công trong việc giảm số người nghèo đói, có mức sống dưới 1USD/ngày từ 51% năm 1990 xuống còn 8% vào năm ngoái.
Các báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ Việt Nam trước Quốc hội gần đây cũng luôn nhấn mạnh các thành quả đạt được. Đặc biệt trong năm 2006, một năm đầy khó khăn, song theo dự báo của Chính phủ, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều sẽ đạt và vượt kế hoạch.
Thế nhưng những thông tin tốt đẹp đó không hoàn toàn làm yên lòng các vị đại biểu Quốc hội. Bởi lẽ, các báo cáo của Chính phủ vẫn chưa làm rõ được những nguyên nhân dẫn tới các mặt yếu kém, bất cập nảy sinh trong quá trình phát triển cũng như các giải pháp để có thể loại trừ nó.
Bày tỏ sự băn khoăn về chất lượng của sự tăng trưởng, đại biểu Nguyễn Bá Thanh (Đà Nẵng) cho rằng: "Chúng ta có quyền tin tưởng vào sự phát triển của nền kinh tế, nhưng đừng lạc quan quá, rồi tưởng đâu chúng ta đang giàu có lắm, rồi chi tiêu, rồi này khác hết sức lãng phí. Chúng ta còn đang rất nghèo, điểm xuất phát của chúng ta thấp, tăng trưởng của chúng ta 8% chứ trên 10% cũng chỉ có ý nghĩa với chính chúng ta thôi, so với các nền kinh tế thế giới thì chưa là cái gì".
Quan tâm tới chất lượng của sự tăng trưởng là thái độ tích cực của Quốc hội. Điều đó thể hiện trách nhiệm của người đại biểu trước cử tri và vận mệnh của đất nước. Bởi vì, một trong những yếu tố làm nên chất lượng và sự bền vững của tăng trưởng kinh tế lại là các lợi ích thiết thực mà đại đa số người dân được hưởng từ những thành quả đó. Do vậy, trong báo cáo của Chính phủ cần phải có thêm tiêu chí để đo lường được mức độ hài lòng của nhân dân trước mỗi thành quả của sự phát triển. Đánh giá được lòng dân mới là điều hệ trọng mà mỗi chính phủ vì dân đều phải quan tâm trong việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững và tránh được các nguy cơ tụt hậu.
Nếu chỉ xem xét các con số ngày một tăng thêm về số lượng các khu đô thị mới, các khu công nghiệp, các dự án và lợi nhuận của các doanh nghiệp thì chúng ta cũng chỉ mới thấy một mặt của sự tăng trưởng. Một mặt khác, có thể diễn tả hoặc không thể diễn tả bằng con số lại là số phận của bao nhiêu người bị mất đất không được đền bù thỏa đáng, thậm chí có không ít người dân không còn nơi nương tựa, trở thành kẻ vô gia cư do chính sách đền bù giải tỏa của chúng ta có vấn đề. Cũng không loại trừ do một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất xử lý các tình huống không đúng chính sách, tạo ra hàng loạt những người dân mất đất một cách oan ức dẫn tới khiếu kiện liên miên, kéo dài. Tình trạng quy hoạch treo vô thời hạn đã khiến cho một khối lượng khổng lồ đất đai bị vô hiệu hóa, nhiều vùng dân cư bị "đóng băng", nhiều vùng đất nông nghiệp trở nên hoang hóa không chỉ làm thiệt hại cho người dân địa phương mà còn tạo ra nguy cơ kéo lùi sự phát triển.
Tệ nạn nhũng nhiễu, sự trì trệ của hệ thống hành chính công dẫn tới nền "văn minh phong bì" vốn đã bị lên án từ lâu và Chính phủ cũng đã hết sức nỗ lực cải cách nhưng kết quả vẫn còn rất khiêm tốn. Báo cáo của Chính phủ thì cho rằng cải cách hành chính 5 năm qua (2001-2005) đã có bước chuyển biến, nhưng các đại biểu Quốc hội nói thẳng thừng rằng đánh giá này là quá cao so với kết quả đạt được và chưa thật sát với thực tiễn. Trên thực tế người dân vẫn chưa hết kêu ca vì luôn bị làm phiền do bộ máy hành chính kém cỏi và chưa thực sự vì dân mang lại.
Thế nhưng đã có một số cuộc "thăm dò ý dân" về mức độ hài lòng của người dân đối với bộ máy hành chính công của một vài thành phố lớn. Kết quả thật bất ngờ, ngay đến những người trong cuộc cũng không thể tin được đó là sự thật. Các con số thống kê cho thấy từ 90 đến 99% người dân được hỏi cho rằng đã hài lòng với chất lượng phục vụ của bộ máy hành chính công. Việc công bố các thông tin như vậy chỉ làm cho người dân thêm ngao ngán về thái độ và phương pháp làm việc của các cơ quan công quyền.
Tăng trưởng và phát triển là mục tiêu mà nền kinh tế Việt Nam phải hướng tới nhưng để cho sự phát triển trở nên bền vững và có ý nghĩa thực sự, các con số tăng trưởng phải thể hiện được tính hiệu quả của nó đối với cộng đồng. Có nghĩa là cần phải hướng tới và đo lường được lợi ích thực sự mà người dân được hưởng từ các thành quả của Chính phủ. Một khi từng thành quả của Chính phủ đều mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân thì những con số tăng trưởng đó mới nhận được sự đồng thuận của cộng đồng.
27-10-2006

ĐỂ HẾT CHẠNH LÒNG!

Nhiều người chạnh lòng khi nghe ông Lý Quang Diệu đánh giá: "Nếu có vị trí số 1 ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người thì Việt Nam không thể xếp sau bất cứ nước nào trong khu vực". Chạnh lòng vì thấy với nhận định trên chúng ta đã bị trách móc khi không đưa được đất nước lên đúng tầm mà lẽ ra phải có.
Cũng ông Lý, trong lần trò chuyện với một nhà lãnh đạo lão thành của Việt Nam khi được khen "ông là một người tài" đã khiêm tốn trả lời: "Tôi chẳng có tài gì. Có chăng là ở chỗ biết sử dụng người tài. Do biết sử dụng người tài nên đất nước Singapore tuy nhỏ bé nhưng vị thế thì lại không nhỏ trên thế giới".
Thuốc tuy đắng, nhưng có thể "đả tật". Sự thật trần trụi có thể làm mất lòng, nhưng nếu cố chấp không nhìn thấy sự thật sẽ chẳng bao giờ biết sai để sửa. Một thực tế đáng buồn đã tồn tại nhiều năm qua trong công tác tổ chức cán bộ của hầu hết các thiết chế trong hệ thống chính trị nước ta là còn rất lúng túng trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài.
Chỉ nói riêng các cơ quan dân cử, về nguyên tắc là nơi mà người dân có quyền lựa chọn những công dân ưu tú nhất để đại diện cho chính mình trong các cơ quan quyền lực của đất nước. Thế nhưng không phải công dân ưu tú nào cũng có thể tự ứng cử hoặc có thể được dân phát hiện giới thiệu ứng cử vào các tổ chức đại diện cho quyền lực của mình một cách dễ dàng. Hiến pháp và Luật pháp hiện hành ghi nhận rất rõ về quyền tự do ứng cử và bầu cử của công dân. Nhưng trên thực tế vẫn còn không ít các vị đại diện cho dân "bị đặt nhầm chỗ" do sự sắp xếp, cơ cấu nên không thể phát huy được tác dụng và hiệu quả như mong muốn của dân. Các chuyên gia về cải cách hành chính cho rằng, HĐND là cơ quan quyền lực cao nhất của địa phương, là cơ quan giám sát các hoạt động của chính quyền địa phương. Vậy mà đại biểu HĐND cũng nằm trong bộ máy UBND thì giám sát cái nỗi gì? Chẳng lẽ đi giám sát chính mình? Như thế chẳng khác nào diễn viên tuồng đóng một lúc hai vai.
Tỷ lệ công dân tự ứng cử hoặc được dân trực tiếp giới thiệu vào các cơ quan quyền lực trong nhiều năm qua là rất thấp, hầu như không đáng kể. Việc công dân tự ứng cử vào các cơ quan quyền lực trong nhiều năm qua chưa trở thành một thói quen, một sinh hoạt bình thường trong đời sống chính trị - xã hội. Đôi khi, ở một vài địa phương "tự ứng cử" còn được coi là một "hiện tượng lạ".
Ông Đặng Văn Khoa, vị đại biểu trúng cử duy nhất trong số 6 người tự ứng cử HĐND TP.Hồ Chí Minh đương nhiệm cho rằng: "Trong một xã hội văn minh, dân chủ, con người muốn đóng góp cho xã hội thì đương nhiên là tự ứng cử. Tất cả mọi người đều phải có cơ hội tự ứng cử, hãy gạt bỏ những suy nghĩ cũ, ức chế và không để rơi vào tình trạng "bị đề cử". Ông Khoa nhấn mạnh: "Tư thế tự ứng cử sẽ khiến cho người ta tự ý thức được rất rõ trách nhiệm cá nhân và tinh thần làm việc nghiêm túc để hoàn thành trách nhiệm đó. Đại biểu của dân mà không có tâm huyết, không có nghĩa khí thì không thể hoàn thành trách nhiệm dân giao phó".
Nước Việt không thiếu nhân tài, để có những người đại diện cho dân thật sự có tâm huyết, tài năng và nghĩa khí không phải là chuyện không thể làm được. Thế nhưng nhân tài nước Việt hình như chưa có điều kiện để cống hiến hết sức mình cho đất nước chỉ vì những quan niệm hẹp hòi, bảo thủ làm xơ cứng các chính sách phát hiện, đào tạo, tuyển dụng nhân sự, khiến cho hoạt động này dẫu đã bước sang thế kỷ 21 vẫn còn mang đậm hơi hướng "cơ cấu" và "xin - cho" theo kiểu "người làng".
Cơ hội và số lượng người tự ứng cử vào các cơ quan dân cử, bộ máy công quyền hay bất kỳ một vị trí nào khác trong guồng máy xã hội phụng sự đất nước chính là thước đo trình độ phát triển dân trí của một quốc gia. Bởi vì, "tự ứng cử" và được dân tín nhiệm bao giờ cũng văn minh, tiến bộ và hiệu quả hơn "bị đề cử" để phải cùng lúc đóng hai vai trong một vở tuồng.
26-01-2007





NGHỀ "CÔNG BỘC" CỐT ĐỂ AN DÂN!

Một lão nông sống ở xã Bình Phú, tỉnh Bến Tre mới đây phản ánh với báo Đại Đoàn Kết rằng ông quan địa chính của xã này chẳng những từ chối nhận đơn khiếu kiện của dân mà còn ép buộc dân phải rút hết những đơn kiện trước đây mà xã đã...lỡ nhận với những lời lẽ hết sức thô lổ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.
Tức mình, ông nông dân này mang đơn lên cấp trên kiện. Sau đó, đơn lại chuyển về đúng tay ông quan địa chính của xã để ... tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Với một sự nhẫn nại hiếm có, ông nông dân vẫn tiếp tục vác đơn đi gõ nhiều cửa khác ở bên trên. Cuối cùng, các đơn vẫn về nằm trên bàn quan địa chính xã.
Nội dung khiếu kiện của ông nông dân xoay xung quanh việc UBND xã tự ý bán đất của tập đoàn sản xuất nông nghiệp cho một cá nhân không phải là tập đoàn viên và cũng không hề hỏi ý kiến của các thành viên trong tập đoàn. UBND xã sau khi nhận đơn của ông nông dân có văn bản phúc đáp, nhưng càng phúc đáp càng làm cho dân thêm thắc mắc. Bởi lẽ, bản phúc đáp viện dẫn các chứng từ nhằm làm căn cứ cho việc bán đất của xã là hợp pháp, nhưng khi dân hỏi tới các chứng từ đó thì các quan lại đổ cho...những vị tiền nhiệm. Còn các vị đương nhiệm thì tỏ ra không có trách nhiệm phải cung cấp các thông tin này cho dân. Việc giải quyết khiếu kiện của dân ở cấp cơ sở vì vậy không mang lại kết quả, dân không hài lòng, kiện tiếp. Các vị quan xã bị dân kiện tụng vượt cấp, bị áp lực từ trên dội xuống nên càng lúc càng...nổi nóng với dân và đã lựa chọn cách hành xử hết sức thô thiển là xúc phạm dân và ép buộc dân phải rút đơn kiện một cách phi pháp.
Trong đời sống dân cư luôn xảy ra nhiều vụ tranh chấp, trong đó có liên quan tới cách hành xử bất cập của chính quyền địa phương mà cụ thể là của một vài quan chức cơ sở. Đó là những việc rất bình thường, không lớn, không nghiêm trọng nhưng các quan chức địa phương vì lý do gì đó lại giải quyết không thấu tình đạt lý, thái độ cư xử với dân lại thiếu minh bạch khiến cho dân có những suy nghĩ không hay về chính quyền và về sự trong sáng của những người có chức trách ở địa phương. Việc giám sát công tác giải quyết khiếu kiện ở cơ sở hiện nay vẫn chưa được tổ chức chặt chẽ, quy cũ, công khai, minh bạch nên quyền hạn giải quyết vấn đề đôi khi lại rơi vào tay một vài cá nhân có chức quyền. Chưa kể, tình trạng nhận đơn rồi chuyển đơn trở về nơi xuất phát của các cơ quan chức năng hiện nay càng khiến cho việc giải quyết lại chỉ tập trung vào chính nơi phát sinh vấn đề và vào chính những người thiếu trách nhiệm để xảy ra khiếu kiện. Tình trạng luẫn quẫn này càng khiến cho kết quả giải quyết thường rất hạn chế thậm chí còn bị lệch lạc càng làm cho đơn từ khiếu kiện ngày một tăng thêm, quá trình khiếu kiện kéo dài dẫn tới những sự căng thẳng không cần thiết.
Trở lại thái độ của ông quan địa chính xã Bình Phú, tỉnh Bến Tre và bản phúc đáp thiếu minh bạch của UBND xã này trong việc giải quyết khiếu nại của dân, chúng ta càng thấy rõ căn bệnh trầm kha của nền hành chính công ở cấp cơ sở là bệnh thiếu minh bạch và thiếu tôn trọng dân. Hai căn bệnh này càng dễ dàng làm cho dân có suy nghĩ lệch lạc về hệ thống công quyền. Trên thực tế, cần nhìn nhận rằng có những vấn đề không đơn giản và tồn tại qua nhiều thời kỳ, nhiều đời lãnh đạo. Song không thể vì vậy mà những quan chức đương nhiệm có thể dễ dàng "đá quả bóng" trách nhiệm sang cho người khác còn bản thân mình thì lại hùng hổ với dân.
Người dân có quyền đòi hỏi chính quyền giải quyết mọi vấn đề trên cơ sở công khai, minh bạch và đúng pháp luật. Nếu ở cấp cơ sở, nơi gần dân nhất, hiểu rõ hoàn cảnh vụ việc của dân nhất, mà không làm cho dân tin cậy, không giải quyết được thắc mắc của dân trong thẩm quyền của mình, để dân đi kiện vượt cấp thì rõ ràng chính quyền cơ sở đã tỏ ra rất thiếu trách nhiệm và xa rời dân.
"Công bộc" của dân mà không biết cách lắng nghe dân, từng bước giải quyết các vấn đề của dân một cách công khai, minh bạch khiến cho dân tin vào chính quyền và "an cư lạc nghiệp" thì còn ai làm được việc này nữa?
24-11-2006

MINH BẠCH KHÔNG SỢ CÔNG KHAI

Hôm qua, 11/1/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng sức ép cạnh tranh lên toàn bộ nền kinh tế và cả trong việc vận hành của bộ máy nhà nước. WTO không chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp, nó còn là cuộc chạy đua của các nhà nước trong việc hoạch định kế hoạch phát triển và lựa chọn giải pháp để đảm bảo tốc độ về đích của mỗi quốc gia trong khuôn khổ một luật chơi chung. Tuy nhiên, những thách thức khi gia nhập WTO sẽ được bù đắp bởi quyền lợi của trên 80 triệu dân Việt Nam cũng sẽ được gia tăng. Trước hết, đó là cơ hội tốt cho mọi người dân với tư cách là người tiêu dùng. Họ sẽ có nhiều cơ hội để lựa chọn, đón nhận các sản phẩm đa dạng và chất lượng hơn. Thị trường sẽ trở nên minh bạch hơn bởi các thông tin luôn được công khai, luôn được cập nhật nhằm cung cấp những cơ hội tốt nhất, nhanh nhất giúp cho mọi người tiêu dùng có thể đưa ra sự lựa chọn thích hợp nhất với mình.
Việc vận hành của hệ thống thị trường luôn hướng tới người tiêu dùng, cũng tương tự như hiệu quả vận hành của bộ máy công quyền luôn phải hướng tới việc lấy "sự hài lòng của dân" làm mục tiêu tối thượng. Nhưng làm sao dân có thể hài lòng được một khi thông tin về bộ máy công quyền thường xuyên không được công khai, không được cập nhật, dẫn tới hệ quả thiếu minh bạch trong việc vận hành hệ thống này.
Trước hết là những thông tin về tài sản cá nhân của các quan chức cao cấp của bộ máy công quyền, những người được nhân dân giao trọng trách và quyền hạn to lớn. Đã có không ít hội nghị, đã tốn rất nhiều giấy mực để chính phủ bày tỏ quyết tâm công khai hóa bằng việc kê khai tài sản cán bộ công chức giữ các vị trí chủ chốt trước khi nhận nhiệm vụ, nhưng việc thực hiện nghe ra hãy còn nhiêu khê lắm. Chưa hề có một thông tin công khai nào về vấn đề này để nhân dân tham khảo. Để nhân dân có thể thực thi quyền giám sát của mình đối với sự "phát triển" tài sản của các cá nhân "có chức có quyền".
Trong các chính sách nhà nước có liên quan tới số đông dân chúng, chúng ta đã từng chứng kiến rất nhiều trường hợp "hành dân" kéo dài bởi những thông tin được "bí mật" không cần thiết. Dễ thấy nhất là những thông tin về quy hoạch, giải tỏa, đền bù... Những thông tin loại này vốn gắn liền với đời sống sinh hoạt và quyền lợi của một khu vực dân cư rộng lớn, thế nhưng rất nhiều năm qua vẫn luôn được các cơ quan chức năng công bố...nhỏ giọt. Hoặc chỉ công bố khi rất nhiều quan chức tham gia quy hoạch đã "thôn tính" xong những phần đất tốt nhất cho mình, cho người thân và cho các "sếp" có liên quan tới "cái ghế" của mình. Gần đây, việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các cấp phải công khai các khoản chi tiêu bằng ngân sách nhà nước cũng chính là một cách minh bạch hóa hoạt động của bộ máy công quyền bắt đầu từ những người lãnh đạo. Người dân cần biết, ngân sách nhà nước, cũng có nghĩa là tiền thuế của dân, có được chi tiêu đúng nơi, đúng lúc phục vụ cho lợi ích của toàn dân và những mục tiêu phát triển đất nước hay không?
Để minh bạch hóa các hoạt động của bộ máy nhà nước không còn con đường nào khác là phải công khai hoá các thông tin về hệ thống này cũng như những thông tin về từng thành viên của nó. Mọi người dân có quyền được tham khảo các thông tin đó để có thể thực thi đầy đủ nhất quyền giám sát của mình đối với bộ máy công quyền. Trên cơ sở thực thi đầy đủ nhất quyền giám sát của nhân dân, việc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà nước từ phía người dân cũng như từ phía những tổ chức xã hội độc lập mới có thể trở thành hiện thực. Bởi vì, nếu bộ máy công quyền vẫn còn quá nhiều vùng tối, vùng cấm; người dân vẫn còn đứng bên lề của quy trình kiểm soát thông tin liên quan tới việc vận hành của bộ máy công quyền thì việc xây dựng một "nhà nước trong suốt" không có tiêu cực, không còn tham nhũng chỉ là chuyện "mua vui cũng được một vài trống canh".
12-01-2007

VIỆT NAM HẬU WTO

Lịch sử đã sang trang. Các nhà viết sử sẽ phải ghi vào trang mới dòng chữ "Việt Nam thời kỳ hậu WTO". Kể từ đây người Việt thực sự bắt đầu một cuộc chơi mới. Cuộc chơi mà họ đã dày công chuẩn bị trong suốt hai mươi năm qua. Thành quả xứng đáng của sự nổ lực không ngừng là đã đưa vị thế nước Việt Nam trở nên bình đẳng với các nền kinh tế hùng mạnh nhất hành tinh. Có thể ngay bây giờ Việt Nam chưa mạnh, nhưng Việt Nam đã thực sự đặt chân vào một sân chơi bình đẳng được tôn trọng bởi các cam kết toàn cầu.
Ra biển lớn, có nhiều cơ hội để đi xa hơn, nhưng dĩ nhiên cũng không thể tránh khỏi gió to và bão dữ. Cạnh tranh và cạnh tranh quyết liệt là điều tất yếu phải đến không chỉ với mọi doanh nghiệp mà còn là thực tế với mọi người, mọi thành phần dân cư trong xã hội Việt Nam thời kỳ hậu WTO. Trên bình diện quốc tế, đó còn là cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà nước với nhau.
Tuy nhiên, điều đáng lo không phải là sự cọ sát trên thương trường vì đó là chuyện đương nhiên, mà là sự tự vượt lên chính mình để tồn tại và phát triển. Nhằm mục tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh cho mỗi thành viên trong xã hội, Chính phủ cần có quyết tâm xây dựng một nền kinh tế thị trường với chi phí thấp, một nền hành chính hỗ trợ dân và vì dân mà phục vụ. Điều đó cũng phù hợp với tinh thần của WTO, phải chấp nhận các chuẩn mực mang tính quốc tế trong lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như trong đời sống hàng ngày của người dân. Các hoạt động của chính phủ cần phải được thiết kế theo xu hướng công khai, minh bạch và ngày càng thu hút sự tham gia phản biện, giám sát của công chúng. Việc làm này có thể sẽ "đụng chạm" đến một số nhỏ những cá nhân có quyền lực hay một số doanh nghiệp "thân hữu" quen thói hưởng thụ đặc quyền đặc lợi, luồn lách để kiếm lợi nhuận mà không đóng góp được gì cho sự tiến bộ của xã hội. Nhưng nếu Chính phủ không mạnh tay cắt bỏ thì đây rõ ràng sẽ là gánh nặng đáng kể cho những thành viên lành mạnh khác và điều đó tất yếu dẫn đến sự suy giảm khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Vượt lên chính mình còn đòi hỏi chúng ta phải có một nguồn nhân lực dồi dào và đủ khả năng làm việc trong các tổ chức xuyên quốc gia. Điều đó đặt gánh nặng trên vai ngành giáo dục Việt Nam, vốn đang loay hoay tìm cách khắc phục các tiêu cực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Đây cũng chính là cơ hội và cũng là thử thách cho giáo dục Việt Nam thời kỳ hậu WTO. Chính sách cho giáo dục cần phải mở cửa và tự chủ hơn bao giờ hết giúp cho giới trẻ Việt Nam có khả năng lựa chọn các cơ hội đang ngày một nhiều hơn hầu có điều kiện vươn xa hơn trong học tập và sáng tạo, cũng như có thể vượt qua các rào cản của thành kiến và quan niệm lỗi thời một cách dễ dàng hơn. Không thể phủ nhận một thực tế trên thương trường thế giới ngày nay sản phẩm càng có nhiều hàm lượng chất xám càng có giá trị cao. Muốn có sản phẩm có giá trị cao, đồng nghĩa với tính cạnh tranh cao không có con đường nào khác hơn là phải đầu tư thích đáng cho một nền kinh tế tri thức. Ngày nay, tất cả chúng ta đều biết một quốc gia muốn trở nên hùng mạnh phải lấy sự học làm căn bản. Bởi vì nguồn lực đáng giá nhất và mãi mãi không vơi cạn đó là nguồn lực con người. Vấn đề của chúng ta là vào WTO phải đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho mỗi con người, mỗi thành viên của cộng đồng đều có cơ hội bình đẳng và công khai phát triển hoàn hảo nhất những khả năng trí tuệ và phẩm chất con người của mình
Một chính sách không bỏ rơi con người, đặc biệt là những người nghèo sẽ giúp Việt Nam tham gia vào WTO một cách tự tin và sẽ tiến những bước vững chắc vươn tới sự thịnh vượng như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "sánh vai các cường quốc năm châu" trong một ngày gần đây.
10-11-2006


THAM NHŨNG LÒNG TIN

Trên các diễn đàn công khai có lẽ chưa bao giờ tham nhũng lại bị lên án và bị tấn công mạnh mẽ như bây giờ. Hầu hết các quan chức nhà nước đều bày tỏ quyết tâm chống tham nhũng tới cùng và luôn khẳng định chống tham nhũng không có vùng cấm. Càng chống, mọi người càng mau chóng phát hiện tham nhũng hầu như có mặt ở khắp mọi nơi, mọi ngóc ngách của xã hội, ngự trị trong từng "tế bào" của bộ máy công quyền. Khắp nơi đều kêu tham nhũng, nhưng lạ lùng thay không có nơi nào tự "sờ" thấy khối u tham nhũng của chính mình để tự mình dũng cảm cắt bỏ những "tế bào" đã bị biến thái đó ra khỏi phần cơ thể còn lành mạnh. Điều đó cho thấy, một khi cơ chế chống tham nhũng chỉ "cho phép" người ta tự chống mình thì hiệu quả và mục tiêu của cuộc chiến với tham nhũng chắc chắn cần phải được xem xét lại.
Chúng ta đã từng chứng kiến phiên tòa sơ thẩm của TAND TP.Hải Phòng xét xử vụ án "quan ăn đất" ở Đồ Sơn khiến cho dư luận xã hội phẫn nộ như thế nào. Diễn biến và kết quả của phiên tòa phi lý đến mức nó được mệnh danh là "một thắng lợi của bọn tham nhũng"! Những cuộc điều tra quy mô về tham nhũng, lãng phí ở các ngành dầu khí, hàng không, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai... cho thấy có nhiều hành vi gây thất thoát làm thiệt hại nghiêm trọng tài sản quốc gia. Song, hầu hết những người đứng đầu, những người được giao trách nhiệm quản lý, khai thác, sử dụng tài sản, tài nguyên quốc gia đều được cơ quan chức năng đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhiều đại biểu Quốc Hội được sự ủng hộ của dư luận đã chất vấn và phản đối cách xử lý nội bộ này nhưng cũng không thể làm thay đổi đuợc lập trường rất kiên định của các cơ quan thi hành pháp luật.
Hiện tượng các quan chức nhận "phong bì" trong dư luận không phải là chuyện lạ. Nhưng để lộ như ông Nguyễn Văn Lâm - nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ mấy năm trước tưởng là chuyện hy hữu hoá ra lại là không phải. Nay tiếp tục "lộ" thêm ông Giám đốc kho bạc ở Hà Tây cũng lại chuyện nhận "phong bì". Căn bệnh "phong bì" quả thực đang ngự trị chễm chệ trên từng "tế bào" của bộ máy công quyền và có lẽ của toàn xã hội. Người viết bài này từng chứng kiến một bệnh nhân cấp cứu tại một bệnh viện nhà nước ở TP.HCM vào đầu tháng 10/2006 đã không được bất kỳ một bác sĩ hay y tá nào nhòm ngó tới khi mà người nhà chưa chịu đưa "phong bì" ra. Sau đó, thân nhân của cả phòng bệnh đều tự than thở với nhau rằng tất cả đều đã từng bị đối xử tương tự. Chuyện "phong bì" chắc chắn sẽ còn là chuyện rất dài vì có thể nói không quá đáng rằng với cơ chế "xin, cho" vẫn còn rất nặng nề trong bộ máy công quyền hiện nay "phong bì" luôn là chuyện tất yếu phải xảy ra.
Tham nhũng, theo tính toán của các cơ quan chức năng, hiện đang làm mất đến gần 10% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Nhưng đó chỉ mới là phần nổi của tảng băng. Con số thực còn lớn hơn rất nhiều. Trên thực tế, chống tham nhũng hiện nay cũng chỉ mới "sờ sờ" tới phần nổi đó của tảng băng và cũng chỉ chủ yếu chống trên giấy tờ, trên diễn đàn. Một đại biểu Quốc Hội đã thẳng thắn chỉ ra rằng "Chống tham nhũng hiện nay nói nhiều hơn làm"! Báo cáo của Chính phủ về chống tham nhũng vẫn chưa làm rõ được bộ mặt thật của tham nhũng cũng như kết quả xử lý các vụ tham nhũng cụ thể như thế nào. Thông tin về tham nhũng chủ yếu là từ dân và báo chí, còn từ cơ quan chính quyền các cấp, các bộ ngành, từ những người đứng đầu các cơ quan công quyền thì rất ít. Một số quan chức nhận "phong bì" là tiền thật, nhưng khi làm thất thoát, mất mát tài sản của nhân dân, của nhà nước thì luôn miệng cho rằng mình bị "lừa"! Ngạc nhiên thay, khi xử lý những quan chức này, các cơ quan chức năng cũng "tin" rằng họ đã bị "lừa"!
Tham nhũng đã làm thất thoát một khối lượng rất lớn tài sản quốc gia mà lẽ ra mọi người dân đều đuợc hưởng lợi từ đó một cách công bằng và xứng đáng. Người dân mong mỏi nhiều ở quyết tâm và hành động không khoan dung với tham nhũng của Chính phủ. Song, nếu cuộc chiến chống tham nhũng vẫn không mang lại được lợi ích hay một tia hy vọng nào cho những người dân vốn đã phải gánh hậu quả từ tham nhũng thì cuộc chiến đó cũng chính là một kiểu tham nhũng - tham nhũng lòng tin.
03-11-2006

TỰ CHỦ ĐỂ TỰ TIN TRÊN BIỂN LỚN

Cùng với việc gia nhập WTO, hình ảnh ấn tượng của Việt Nam với tư cách là nước chủ nhà của APEC 2006 không chỉ kích thích sự quan tâm của cộng đồng thế giới mà còn đang trở thành tâm điểm của dư luận xã hội và giới truyền thông trong nước. Sự "bùng nổ" thông tin về WTO, về APEC tưởng chừng có thể làm lu mờ đi một sự kiện mà nhiều năm qua đã trở thành một ngày truyền thống trong văn hóa Việt Nam thể hiện tinh thần "tôn sư trọng đạo" - ngày Nhà Giáo Việt Nam.
Bên cạnh những lo toan về khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, về việc cần thiết phải xây dựng thương hiệu Việt cho "cuộc chiến" thương mại toàn cầu, ngày Nhà Giáo Việt Nam lặng lẽ tới nhắc nhỡ chúng ta không quên cái gốc của sự phát triển. Đó là nguồn lực con người, nhân tố then chốt của nền kinh tế tri thức.
Không phải ngẫu nhiên mà một trong năm khuyến nghị của ông David Knapp - Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) phát biểu trong Diễn đàn Đầu tư APEC mới đây lại đề cập đến vấn đề giáo dục: "Việt Nam cần cải cách hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và sau đại học". Cũng không phải ngẫu nhiên mà bên lề APEC lại có diễn đàn "Tiếng nói của tương lai" (Voice of the future) dành cho sinh viên khối APEC gặp gỡ giao lưu với nhau và có cơ hội tiếp cận, phỏng vấn các nhà lãnh đạo trong khối APEC về các vấn đề bức xúc nhất mà giới trẻ quan tâm.
Giới trẻ APEC ngày càng khẳng định mạnh mẽ vai trò người chủ tương lai của mình. Là một thành viên, giới trẻ Việt Nam cũng không thể đứng ngoài cuộc. Tuy nhiên, môi trường giáo dục và cơ chế xã hội Việt Nam cho tới nay vẫn chưa thực sự trở thành bệ phóng tốt nhất cho giới trẻ Việt Nam tự tin trở thành người chủ của tương lai.
Giáo dục, mà đặc biệt là giáo dục đại học, là để tạo nên những con người tự chủ, có năng lực làm chủ bản thân, làm chủ tri thức thực sự xứng đáng trở thành người chủ đàng hoàng của xã hội và đất nước. Do vậy, môi trường đại học phải là một cơ sở xã hội tự chủ điển hình nhất. Điều kiện tiên quyết để được sự tự chủ là phải có tự do tư tưởng. Trường đại học, trước hết phải là môi trường hoàn hảo để nơi đó những người chủ của tương lai tập làm quen với các đức tính quan trọng nhất của một con người nếu muốn được coi là trí thức: một người ý thức được rằng mình có quyền tự do tư tưởng và tuyệt đối tôn trọng quyền tự do đó của người khác.
Điều đáng mừng là trong đề án cải cách giáo dục của Bộ GD-ĐT trình Chính phủ gần đây đã nhấn mạnh tới chuyện trao quyền tự chủ rộng rãi cho các trường đại học. Một dự thảo đề án đổi mới phương pháp giao chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2007 cũng được Bộ GD-ĐT chủ trương giao cho các cơ sở đào tạo được quyền chủ động thiết kế, quy định mẫu văn bằng, in ấn và quản lý cấp phát văn bằng theo định hướng giá trị văn bằng của trường nào thì được bảo đảm bằng uy tín, chất lượng của trường đó. Theo các nhà quản trị đại học, đây là tín hiệu đầu tiên cho thấy chủ trương trao quyền tự chủ cho các trường đại học có thể sẽ bắt đầu từ mùa tuyển sinh 2007. Ở một góc nhìn khác, sự tự chủ sẽ bắt đầu bằng việc xác lập và phát triển "thương hiệu" của mỗi trường đại học trên cơ sở nội lực của chính mình.
Cần phải hiểu "trao quyền tự chủ rộng rải cho các trường đại học" không chỉ dừng lại ở khâu tuyển sinh hay chỉ dừng ở chuyện xây dựng "thương hiệu". Tinh thần tự chủ cần phải được xem như là một thứ triết lý hành động trong môi trường đại học ở tất cả các khâu. Nó bao gồm tự chủ về tuyển sinh, tự chủ về chương trình, tự chủ về phương pháp giảng dạy và học tập, tự chủ về tổ chức nhân sự, đội ngũ giáo sư, tự chủ về quản trị, tài chính...
Trên thế giới ngày nay ai cũng biết một nền kinh tế hùng mạnh là một nền kinh tế sở hữu những sản phẩm trí tuệ, những bí quyết công nghệ hàng đầu. Sản phẩm càng chứa nhiều hàm lượng chất xám càng có giá trị cao. Ở Hoa Kỳ hơn 60% tổng sản lượng hàng năm của nền kinh tế được sản sinh ra từ các phòng thí nghiệm thuộc các trường đại học và các viện nghiên cứu. Có chính sách tốt để đào tạo nhân tài là đúng nhưng vẫn chưa đủ. Cần phải có chính sách phát hiện và sử dụng người tài minh bạch và công khai. Đó là chuyện rất quan trọng mà Việt Nam trên thực chất vẫn chưa làm được cho đến nay. Có thể lấy ví dụ ngay tại các trường đại học của Việt Nam trong nhiều năm qua, Bộ GD-ĐT hay chính xác hơn là Nhà nước Việt Nam chưa mạnh dạn trong việc thu hút và sử dụng những nhà trí thức hàng đầu, có uy tín học thuật để lãnh đạo đại học và các viện nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học ngoài Đảng, nhiều trí thức Việt Kiều có uy tín thường được các trường đại học hàng đầu thế giới thỉnh giảng vẫn chưa được mời vào những vị trí xứng đáng trong hệ thống giáo dục đại học và sau đại học ở Việt Nam. Do những quan niệm lạc hậu, lỗi thời và bảo thủ chúng ta đã bỏ qua một phần rất quan trọng của nguồn lực Việt hiện có để phục vụ cho việc chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Điều quan trọng khi trao sự tự chủ toàn diện cho các trường đại học là sẽ tạo ra một môi trường học thuật thuần khiết. Sự tự do và cởi mở mà môi trường đó mang lại chính là bệ phóng tuyệt vời cho những ý tưởng sáng tạo. Được rèn luyện và trưởng thành trong môi trường đó, giới trẻ Việt Nam mới có thể nhập cuộc một cách tốt nhất trên sân chơi APEC, WTO và những sân chơi tương tự khác với tầm vóc luôn "sánh vai các cường quốc năm châu" một cách tự tin hơn!
17-11-2006

TOÀN TÂM TOÀN Ý VỚI DÂN

Bên cạnh rất nhiều vị đại biểu Quốc hội được nhân dân yêu mến, tin cậy cũng vẫn còn không ít vị thực hiện vai trò đại diện cho dân của mình khá mờ nhạt. Có những đại biểu Quốc hội suốt cả nhiệm kỳ không hề phát biểu một lần hoặc rất ít khi tham gia thảo luận đóng góp ý kiến cho những vấn đề quốc kế dân sinh. Những đại biểu này luôn giữ vững lập trường “dĩ hòa vi quý” khiến cho tính chiến đấu trong tranh luận ở Quốc hội chưa cao như nhận xét của đại biểu Nguyễn Ngọc Trân, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban đối ngọai của Quốc hội. Theo ông Trân, có tình trạng “cài răng lược” với nhau, người phát biểu ở đây thì chỗ khác hãm lại. Khiến đại biểu không dám phát biểu, bởi hễ phát biểu là sợ đụng chạm. Hễ đụng chạm thì lại có vấn đề va chạm quyền lợi. Vì vậy, ông Trân kiến nghị: “Cần phải lựa chọn những vị đại biểu Quốc hội không phải do cơ cấu thuần túy cho có mặt” để tránh tình trạng có những đại biểu bị đặt “ngồi nhầm chỗ” nên không thể phát huy được tác dụng của mình trong các sinh họat Quốc hội.
Một thực tế khác cũng khiến cho người dân cảm thấy không hài lòng khi biết có khá nhiều vị đại diện cho mình vì các “trọng trách” khác mà thường xuyên bỏ họp Quốc hội. Theo đại biểu Nguyễn Lân Dũng, có một số vị đại biểu không tham dự đều đặn các kỳ họp. Ngay trong phiên thảo luận ở hội trường về Báo cáo công tác cả nhiệm kỳ khóa XI của Quốc hội sáng 23/3/2007 cũng đã thiếu khỏang 80 người mặc dù đây là kỳ họp cuối của Quốc hội khóa XI và mới chỉ là những ngày đầu của kỳ họp. Ông Dũng cho biết thêm: “Nhiều đại biểu đã ghi tên tham gia các ủy ban nhưng cả khóa hầu như không đi họp. Tính gương mẫu của một số đại biểu Quốc hội chưa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân”.
Ông “hội đồng Khoa” (Đặng Văn Khoa) ở thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định rút đơn tự ứng cử vào Quốc hội khóa XII cũng vì lý do ông chưa có thể dành đầy đủ thời gian, tâm sức và trí tuệ cho công việc của người đại biểu nhân dân. Theo ông, người đại biểu Quốc hội, ngòai tâm thế đại diện cho dân ra không thể có một tâm thế nào khác cho một vai trò khác. Giữ một tâm thế khác, một vai trò khác thì rất khó làm tròn vai trò đại biểu. Nhiều người tự ứng cử khác là các nhà khoa học, nhà giáo, nhà doanh nghiệp… cũng quyết định rút đơn vào giờ chót vì lý do tương tự. Họ tự cân nhắc và thấy rằng họ không đủ thời gian, tâm sức và trí tuệ để có thể hòan thành tốt vừa công tác chuyên môn, công việc làm ăn vừa là người đại diện mang trọng trách với dân.
Bầu cử Quốc hội khóa XII đang diễn ra trong một thời điểm hết sức thuận lợi và hiếm có trong lịch sử đất nước. Chưa bao giờ Việt Nam có những điều kiện thuận lợi và những cơ hội tốt như thế để bước chân vào sân chơi tòan cầu một cách hòan tòan xứng đáng. Quốc hội khóa XII phải là một quốc hội huy động được sức mạnh của tòan dân tộc để nắm bắt thời cơ đưa đất nước vươn lên hàng các quốc gia phát triển. Vì vậy, bầu cử Quốc hội kỳ này phải thực sự là một bước đột phát, một sự thay đổi cơ bản trong việc tuyển chọn hiền tài, những người thực sự xứng đáng, được dân tin, dân bầu, dân chọn vào cơ quan đại diện cho quyền lực cao nhất của dân. Để có thể nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và nhu cầu phát triển bức xúc của đất nước, theo nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Nên mở rộng cửa cho ứng cử viên ngòai Đảng và giảm số kiêm nhiệm tối đa. Nên khuyến khích và ủng hộ tất cả những ai tự thấy có khả năng, có lòng yêư nước chân thành…Theo tôi, Đảng viên cũng là công dân, có số do Đảng giới thiệu và cũng có số tự ứng cử, không nên gò bó. Đó cũng là cách để Đảng viên có trách nhiệm lựa chọn chỗ đứng của mình nếu được sự tín nhiệm của dân”.
30-3-2007


KHÔNG NÊN “ĐỘC QUYỀN” CHỐNG THAM NHŨNG!

Muốn chống tham nhũng có hiệu quả phải biết dựa vào dân. Muốn dựa vào dân có hiệu quả, phải có cơ chế để “dân có thể mở mồm ra nói”. Lâu nay, vai trò giám sát các hoạt động công quyền của dân thực sự rất mờ nhạt, rất hình thức vì chưa có một cơ chế giám sát được cụ thể hoá từ các quy định của pháp luật. Họa hoằn lắm mới có một vài vụ do tiêu cực kéo dài trong khi thực hiện một số dự án, có khiếu nại, tố cáo của cư dân địa phương, trước áp lực mạnh mẽ của công luận, chính quyền sở tại mới chịu để cho nhân dân tham gia giám sát
Trong khi đó, các quyền được thông tin, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương của công dân đã được quy định rất rõ trong Hiến pháp. Trên cơ sở các quy chuẩn pháp luật nền tảng này, hoạt động của cơ quan công quyền cần thiết phải được xây dựng trên nguyên tắc công khai, minh bạch và nhất thiết phải có quy chế thông tin định kỳ cho mọi người dân được biết. Như vậy, các quy định về chế độ bảo mật cũng cần thiết phải được cân nhắc để tránh tình trạng lạm dụng hạn chế quyền được thông tin của người dân. Một khi người dân có đủ thông tin, có cơ chế để tham gia thảo luận, phản biện và giám sát các hoạt động của bộ máy công quyền khi đó mới có thể phát huy sức mạnh của toàn dân tham gia chống tham nhũng, lãng phí - một loại “giặc nội xâm” có nguy cơ làm suy yếu đất nước.
Trong thời gian qua, nhiều tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam cũng đã bắt đầu lưu ý đến việc lấy ý kiến nhân dân cho một số chính sách và hoạt động của mình. Đó là một tín hiệu tốt, song việc làm đó còn tùy thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của các tổ chức riêng rẽ chứ chưa được thực hiện như là một quy định của pháp luật nhằm khẳng định rõ ý nguyện của toàn dân trước các vấn đề quốc kế dân sinh đại sự. Ý kiến của nhân dân trong các cuộc góp ý như trên cũng chưa thực sự trở thành một mệnh lệnh có tính chất pháp lý để nhà chức trách buộc phải tuân theo. Vì vậy, để khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương của dân cần thiết phải xây dựng một bộ luật về trưng cầu ý dân. Cần phải có những quy định cụ thể về việc phải đưa một vấn đề ra trưng cầu ý dân như thế nào và kết quả của cuộc trưng cầu ý dân đó được xem như là mệnh lệnh của nhân dân đòi hỏi bộ máy công quyền có trách nhiệm phải thi hành.
Chống tham những, lãng phí trong hoạt động của bộ máy công quyền là một yêu cầu hết sức bức xúc và cũng rất nhạy cảm hiện nay nên càng không thể thiếu vắng vai trò giám sát chặt chẽ và toàn diện của nhân dân. Độc quyền trong mọi lĩnh vực đều đưa đến một hậu quả không tốt. Nhiều hành vi trục lợi, thu vén siêu lợi nhuận, lộng quyền…đều xuất phát từ những dịch vụ độc quyền như điện lực, viễn thông, dầu khí, hàng không, cấp nước…Cho nên, chống tham nhũng và lãng phí cũng không nên là lĩnh vực “độc quyền” của bộ máy công quyền. Các tổ chức chống tham nhũng và lãng phí nên hạn chế tới mức thấp nhất sự hiện diện của các quan chức đầu ngành kiêm nhiệm. Cần phải tăng cường tính chuyên nghiệp và vai trò độc lập của các cơ quan, các ban chỉ đạo chống tham nhũng bằng cách mở cửa tuyển chọn các viên chức thực sự có năng lực và phẩm chất. Tạo ra các cơ chế cho báo chí, cho các tổ chức xã hội, quần chúng tham gia một cách thực sự vào các cơ quan chống tham nhũng.
Cũng cần thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm và cơ chế “bất thành văn” trong việc xử lý những quan chức là đảng viên có hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật. Cách hành xử lâu nay của tổ chức đảng và cơ quan công quyền khiến nhân dân vô tình nghĩ rằng trên thực tế đang tồn tại hai hệ thống luật pháp. Một luật pháp dành cho dân và một luật pháp dành cho một số quan chức đảng viên. Trong khi Hiến pháp khẳng định “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52, Hiến pháp nước CHXHCNVN 1992). Việc xử lý kỷ luật đảng viên của tổ chức đảng là bình thường song đừng để quy trình này gây ảnh hưởng đến việc thi hành pháp luật có liên quan tới cán bộ công chức là đảng viên khiến cho dân cảm thấy có sự phân biệt đối xử và còn tồn tại đâu đó những “vùng cấm”. Với tinh thần tiên phong trong đổi mới và thượng tôn pháp luật, nhân dân tin rằng Ban chấp hành Trung ương Đảng sẽ mau chóng có những quy định mới thích hợp hơn về việc này.
28-7-2006

CỔ PHẦN HÓA “TẤT TẦN TẬT” ĐỂ “LÊN SÀN”?

Hiệu ứng của phong trào “chơi” chứng khóan “mọi lúc mọi nơi” đang ngấm sâu vào từng tế bào của xã hội. Nhiều động thái xã hội gần đây cho thấy có sự tác động đàng sau nó là “hơi nóng hừng hực” của thị trường chứng khóan với những cơn trở chứng liên tục khó lường.
Cơ quan chức năng đã cảnh báo về việc số lượng hồ sơ đăng ký thành lập các lọai hình kinh doanh – dịch vụ tài chính, chứng khóan, ngân hàng cổ phần …đang tăng lên đột biến và đã “bật đèn đỏ” để cảnh giác. Vì phần nhiều là những hồ sơ không đảm bảo tiêu chuẩn để cấp phép. Thế nhưng, liệu có ai bảo đảm được rằng một vài hồ sơ đó sẽ không “đường hòang” trở thành những đơn vị phát hành “cổ phiếu” trong một ngày đẹp trời với những bảng “cáo bạch” và “thông cáo báo chí” hết sức hòanh tráng.
Trong lĩnh vực đào tạo, ngành tài chính – chứng khóan đã vượt xa số lượng thí sinh đăng ký dự thi vào ngành “hot” nhất xưa nay là công nghệ thông tin. Bên cạnh những trang quảng cáo dày cộp thường thấy trên các nhật báo về học tiếng Anh-Tin học, du học nước ngòai giờ đây quảng cáo các khóa học về đầu tư chứng khóan ngắn và dài hạn cũng đang chen chút và có phần lấn lướt hơn. Hai cuộc họp mặt tìm hiểu thông tin về thị trường chứng khóan ở Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh đã biến thành hai phiên “chợ trời” hỗn loạn, phải nhờ tới cảnh sát 113 can thiệp mới vãn hồi được trật tự.
Nhiều người đã “trúng lớn” với các cổ phiếu của những doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa. Bên cạnh đó cũng không ít người đang “ôm” hàng đống cổ phíêu xuống giá liên tục mòn mỏi chờ người đặt lệnh mua. Mọi thứ đang diễn ra, như nhận xét của các chuyên gia là không theo một quy luật nào, một giáo trình nào từng được giảng dạy trong các trường lớp chuyên ngành đầu tư tài chính.
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn, đúng đắn. Nhưng rất tiếc, trong quá trình thực hiện chủ trương đúng đắn này lại rất thường xảy ra những “chệch choạc”. Không ít lần dư luận đã công khai chỉ trích những trường hợp biến chủ trương cổ phần hóa thành hành vi tư nhân hóa tài sản Nhà nước với giá “ưu đãi”. Tất nhiên, chỉ có lợi cho một số ít người có chức có quyền và có liên quan mật thiết tới việc “chuyển hóa” này. Cũng không phải ngẫu nhiên mà gấn đây các nhà chức trách đã nhiều lần cảnh báo coi chừng những họat động rửa tiền trên thị trường chứng khóan. Cố phần hóa và thị trường chứng khóan thực sự có mối quan hệ “dây mơ rễ má”. Trong hòan cảnh “tranh tối tranh sáng” hành lang pháp lý về những họat động này chưa chặt chẽ, các mối quan hệ đan xen giữa hai lĩnh vực này thật khó có thể kiểm sóat. Vì vậy, có những nơi tự mình “linh họat” vận dụng theo cơ chế “thỉnh thị” hoặc “xin – cho” để “tháo gỡ”. Khi tính phức tạp của vấn đề càng tăng thì khả năng kiểm sóat tình hình của các cơ quan chức trách nhằm đảm bảo quyền lợi của Nhà nước tức của tòan dân càng trở nên hạn chế hơn.
Dư luận đã thực sự lo lắng trong việc cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà nước với giá rất thấp để rồi sau đó một số nhỏ cá nhân nắm phần lớn cổ phần sẽ được hưởng lợi. Từ đó, xuất hiện không ít những “kẻ không cần lên sàn, nhưng đã ăn xong phần gốc”. Trong khi, tài sản của doanh nghiệp Nhà nước về nguyên tắc là tài sản của tòan dân. Nguy cơ thất thóat tài sản Nhà nước không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp mà đang tiến dần tới các sự nghiệp công ích xã hội khác. Trong đó có cả sự nghiệp đào tạo con người và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Một Hội nghị do UBMTTQ TP.Hồ Chí Minh tổ chức tuần qua đã đi đến kết luận không đồng tình với chủ trương cổ phần hóa một số trường công và bệnh viện công. Vì cho rằng giáo dục và y tế vốn là 2 lĩnh vực liên quan thiết yếu đến đời sống của mọi người dân. Đặc biệt là dân nghèo, người có thu nhập trung bình mà Nhà nước có trách nhiệm phải đầu tư với chất lượng phục vụ ngày càng cao. Cần phân biệt chủ trương xã hội hóa và cổ phần hóa trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Xã hội hóa là Nhà nước tạo điều kiện để mọi người có khả năng mở nhiều hơn nữa trường tư và bệnh viện tư. Còn cổ phần hóa trường công và bệnh viện công có nguy cơ dần dần “chuyển hóa” các cơ sở công lập này vào tay các tư nhân đặc quyền đặc lợi. Đây là một viễn cảnh mà trên thực tế đã xảy ra trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, gây thất thóat lớn tài sản của nhân dân. Hơn nữa, hiện chưa có hành lang pháp lý nào cho việc cổ phần hóa trường học và bệnh viện công. Việc làm thí điểm của TP.Hồ Chí Minh đã thực sự phù hợp chưa? Vả lại, cũng không nên “thí điểm” trên số phận và sức khỏe của nhân dân.
20-4-2007

VÔ CẢM VÀ VÔ TRÁCH NHIỆM!

Đọc những dòng “Trách nhiệm và lương tâm” từ Nhật ký phóng viên của Lê Thanh Hà đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 11/4/2007, tôi vừa bàng hòang vừa lo lắng. Bàng hòang vì cách hành xử nhẫn tâm, vi phạm pháp luật trắng trợn của những người lớn nhân danh những “công cụ” tốt đẹp nhất của xã hội nhầm vào một em học sinh gái chỉ mới hơn 10 tuổi. Họ là những thầy giáo, là tổng phụ trách đội, là công an nhân dân…hơn nữa, họ còn là những người lớn, là bậc phụ huynh, theo lẽ thường họ phải biết tôn trọng pháp luật, hành xử theo luật và hơn nữa phải theo những tập quán đạo đức xã hội về sự quan tâm, chăm sóc và bảo vệ trẻ em trong mọi hòan cảnh. Xã hội đã tin cậy và giao cho họ quyền hạn, trách nhiệm để chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước. Và họ đã làm gì với em Hùynh Thị Ngọc Trâm, học sinh lớp 5 Trường tiểu học An Hiệp 2, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp để ngay sau đó em trở thành một người tâm thần, sợ hãi tất cả mọi người và dĩ nhiên không thể tiếp tục đi học như những trẻ em bình thường khác? Rồi đây tương lai của em sẽ ra sao với cú sốc quá lớn ngay khi em còn đang ngồi trên ghế nhà trường?
Cách đây hơn 3 tuần em Trâm bị tổng phụ trách đội là thầy giáo Lê Văn Xem nghi lấy cắp 47.800 đồng tiền quỹ lớp nên áp giải em lên công an xã để lấy khẩu cung. Việc này cũng được sự đồng tình của thầy hiệu trưởng Lưu Văn Ca. Đến công an xã, Trâm bị tách đưa vào phòng riêng và bị hai công an xã là Lê Văn Thanh và Võ Thanh Phương dọa dẫm, ép cung. Khi gia đình đi tìm kiếm vì không thấy em đi học về, em Trâm đang ở trong tình trạng hỏang lọan vì sợ hãi và stress nặng. Mặc dù đã nhiều lần đưa Trâm đi chữa trị ở Bệnh viện Sức khỏe tâm thần TP.HCM, nhưng đến nay tình trạng của Trâm vẫn không thuyên giảm mà còn có nguy cơ nặng hơn. Bàng hòang và phẫn nộ, dư luận đã lên tiếng yêu cầu các cơ quan chức năng xử lý thích đáng những người lớn vô cảm, vô trách nhiệm đã dồn đẩy em Trâm vào hòan cảnh thương tâm như vậy.
Thế nhưng, dù ông hiệu trưởng đã tỏ ra ân hận vì sai lầm “phản giáo dục” của mình đã nộp đơn xin từ chức, dù thầy giáo tổng phụ trách đội, các anh công an xã có bị kỷ luật tương xứng với sai phạm của mình thì em Trâm cũng sẽ chẳng bao giờ trở lại với những ngày tháng hồn nhiên trước đây khi những người lớn có “trách nhiệm giáo dục, chăm sóc và bảo vệ” em phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Họ đã hành xử như những người không có lương tâm, không có gia đình và cũng không phải là những người được đại diện cho những “công cụ” tốt đẹp nhất của Nhà nước trong trường hợp của em Trâm.
Có những sai lầm sẽ phai mờ dần theo năm tháng, nhưng cũng không ít hậu quả của những việc làm tắc trách, vô cảm sẽ mãi mãi hằn sâu trong tâm trí và cuộc sống của một con người. Nếu mỗi sai lầm chúng ta đều phải trả giá như trường hợp em Trâm thì quả là một cái giá quá đắt cho xã hội.
Đó cũng là điều mà những ai có lương tri cũng đều phải lo lắng khi biết chứng kiến hòan cảnh đau lòng của em Trâm. Các luật sư, các nhà tâm lý giáo dục lên tiếng về trường hợp này đều cho rằng các thầy giáo, công an xã, tổng phụ trách đội có liên quan đã có những hành vi xâm phạm quyền trẻ em, bắt giữ người trái pháp luật, phản sư phạm và trên hết là phi nhân bản. Điều đáng lo ngại là những hành vi đáng bị lên án và phạm pháp đó lại xuất phát từ những con người được xã hội đào tạo, tin cậy giao cho những nhiệm vụ cao quý nhất là “trồng người” và bảo vệ sự bình an, hạnh phúc của nhân dân.
13-4-2007

CHI TIÊU ĐÚNG ĐỂ CHẤN HƯNG GIÁO DỤC

Đã bắt đầu một năm học mới. Cũng là thời điểm mà ngành giáo dục Việt Nam đang gặp phải nhiều “sự cố” nhất từ trước đến nay. Thực ra, những tiêu cực gần đây của ngành giáo dục không phải là quá mới lạ, hay quá cá biệt. Chúng chỉ là một phần rất nhỏ vừa nhô lên của tảng băng khổng lồ vốn đã tích tụ từ rất nhiều năm qua.
Trên diễn đàn công khai gần đây cũng đã xuất hiện nhiều ý kiến rất tâm huyết bày tỏ lòng khao khát chấn hưng nền giáo dục nước nhà và xem đó như là mệnh lệnh cấp thiết của cuộc sống. Nếu như chúng ta thực sự muốn đất nước thoát ra khỏi lòng luẩn quẩn đói nghèo - lạc hậu và mãi mãi kém phát triển.
“Nói không với tiêu cực và bệnh thành tích” là một bước đột phá rất đáng hoan nghênh của ngành giáo dục. Đồng thời thể hiện rất rõ quyết tâm của vị Tân Bộ trưởng mong muốn thực hiện một sự thay đổi về chất trong công tác của toàn ngành. Tuy nhiên, giáo dục cũng chỉ là một hệ thống con trong toàn bộ hệ thống xã hội. Giáo dục cũng phải chịu sự chi phối nghiệt ngã của các quy luật xã hội. Một khi hệ thống lớn vẫn còn không ít lỗi cơ bản thì sự vận hành của hệ thống con hẳn sẽ rất khó khăn để có thể tự mình “lột xác” được. Nói như vậy để thấy rằng nếu muốn làm một cú đột phá thay đổi về chất của hoạt động giáo dục cần có sự tham gia của toàn xã hội. Tất nhiên, đó là sự tham gia tích cực theo chiều hướng lành mạnh chứ không thể tiếp tục sự tham gia thụ động theo kiểu “chạy trường, chạy thành tích, chạy bằng cấp, chạy dự án” nhà trường – gia đình và xã hội vừa là “đồng tác giả, vừa là đồng nạn nhân”… như trước đây.
Cũng cần thấy rằng các nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp phát triển giáo dục ở Việt Nam trong những năm qua là không nhỏ. Tiến sĩ Vũ Quang Việt, chuyên viên thống kê cao cấp của Liên hiệp quốc, đã từng đưa ra những con số về chi tiêu cho giáo dục của Việt Nam khiến cho nhiều người phải giật mình. Theo đó, chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam từ năm 2000-2005 là con số rất lớn so với thu nhập của người dân và thu nhập cả nước. Cụ thể chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam năm 2005 chiếm 8,9% GDP (vượt cả Mỹ chỉ có 7,2%, Pháp 6,1%, Nhật 4,7%). Trong chi tiêu trên, dân các nước phát triển cao chỉ phải trả khoảng 20%, trong khi dân Việt Nam phải chi trả từ 40-50% , phần còn lại do nhà nước chi trả. Gần đây, các phụ huynh ở TP.HCM sẵn sàng chi từ 2.000USD trở lên để “chạy” một chỗ học cho con tại trường PTTH chất lượng cao Lê Quý Đôn cũng đã phần nào chứng minh được khả năng chi tiêu cho giáo dục của dân chúng. Điều đáng buồn là kiểu “chi tiêu” đó chỉ làm cho giáo dục Việt Nam thêm tiêu cực và trì trệ.
Về phía nhà nước, việc quản lý nguồn chi cho giáo dục cũng chưa phải là hoàn hảo. Các nhà quan sát cho rằng, trong lĩnh vực giáo dục hiện có không ít các dự án đang vận hành tiêu cực không thua gì PMU-18 của ngành GTVT. Dư luận đã từng lên tiếng về các dự án đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, dự án đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, dự án xoá mù chữ trở lại và phổ cập tiểu học đúng độ tuổi cho các vùng khó khăn… mỗi dự án “ngốn” hàng trăm triệu USD tiền vay mượn của nước ngoài (tuy là vay ưu đãi, nhưng vẫn là nợ phải trả) được “phân phối” cho những cán bộ cao cấp của Bộ GD&ĐT quản lý và thực hiện theo kiểu mạnh ai nấy làm một cách tùy tiện. Rất nhiều PMU mẹ, PMU con, PMU biến tướng đủ kiểu đã mọc lên như nấm trong quá trình thực hiện các dự án hàng trăm triệu USD này. Đến nay, ngành giáo dục Việt Nam vẫn chưa thể đưa ra được một đánh giá chính thức nào về kết quả thực hiện các dự án nói trên.
Việc sử dụng tùy tiện kinh phí của các dự án nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian qua càng được minh chứng hùng hồn hơn trong trường hợp của ông cựu bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển khi ông được đề án đào tạo cán bộ tại nước ngoài của ngành giáo dục (đề án 322) cử đi du học tại Anh và được thanh toán bằng tiền nhà nước. Quyết định cử ông Hiển đi học tiếng Anh tại vương quốc Anh bằng kinh phí của đề án 322 do Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Trần Văn Nhung phê duyệt. Trong bốn tháng học tiếng Anh, ông Hiển được nhận mức học bổng 860 USD/tháng và toàn bộ khoản học phí 2.000 bảng Anh cũng do đề án 322 chi trả. Ngoài ra, trong một tháng cuối cùng công tác tại Anh, ông Hiển sẽ được nhận công tác phí khoảng 3.000 USD, chủ yếu để chi trả tiền chỗ ở trong thời gian ở Anh. Đây được xem là trường hợp cá nhân duy nhất được đặc cách sử dụng kinh phí của đề án 322 từ khi đề án được triển khai. Được biết, yêu cầu về độ tuổi của đối tượng tham gia đề án tối đa là 50, trong khi ông Hiển đã 59 tuổi.
Chi tiêu cho giáo dục theo kiểu như thế này thì biết đến bao giờ mới có người hiền tài để chấn hưng giáo dục Việt Nam đây? Chưa nói đến chuyện lựa chọn cán bộ được đào tạo ở nước ngoài như thế liệu họ có thể làm được gì cho dân cho nước! Tiền dự án, tiền vay mượn của nước ngoài, tiền ngân sách nhà nước… phải chăng có thể trở thành “bổng lộc” để các quan thoải mái chia chác cho nhau?
08-9-2006

CHUẨN BỆNH ĐÚNG SẼ TRỊ ĐƯỢC BỆNH

Lần đầu tiên việc sử dụng tiền đóng thuế của dân đã được công khai hoá trong một báo cáo của cơ quan kiểm toán nhà nước về kết quả kiểm toán ngân sách quốc gia năm 2005. Theo phân tích của các chuyên gia, kiểm toán tài chính cũng giống như “khám sức khoẻ” cho nền công vụ và việc công khai kết quả “khám sức khoẻ” này được coi là rất cần thiết cho việc làm lành mạnh hóa nền tài chính công.
Thực ra việc kiểm toán này chỉ mới tiến hành trên cơ sở chưa đầy một nửa của nền tài chính quốc gia, nhưng theo ông Vương Đình Huê, Tổng Kiểm toán Nhà nước, những vấn đề mà Kiểm toán Nhà nước phát hiện trong quá trình kiểm toán các bộ ngành, các địa phương cũng đã thể hiện được tương đối đầy đủ thực trạng diện mạo sử dụng ngân sách của các cơ quan nhà nước hiện nay.
Kiểm toán đã chỉ rõ một số bất cập, khuyết điểm và sai phạm xảy ra nhiều năm qua vẫn chưa có biện pháp khắc phục như: dự toán nhiều địa phương lập và được giao chưa tích cực và sát thực tế; dự toán thu sự nghiệp thấp hơn nhiều so với thực hiện năm trước; các khoản để lại chi quản lý qua ngân sách tại các địa phương không được giao dự toán hoặc giao thấp hơn nhiều so với thực tế; chi hành chính ở nhiều địa phương vượt dự toán rất cao; sử dụng dự phòng không đúng mục đích; ghi thu, ghi chi ngân sách các khoản thu để lại chi quản lý qua ngân sách không kịp thời, đầy đủ; sử dụng vượt thu không đúng thẩm quyền.
Báo cáo kiểm toán càng củng cố thêm nhận định của dư luận trong nhiều năm qua về “căn bệnh” của nền tài chính công: không tuân thủ pháp luật ở các cơ quan công quyền; chi sai nguyên tắc; tình trạng tham nhũng, lãng phí, trốn thuế, lập quĩ đen tràn lan ở các doanh nghiệp và bộ ngành. Còn hiệu quả kinh doanh khu vực doanh nghiệp nhà nước thì vô cùng tệ hại, thua lỗ triền miên và tỉ suất lợi nhuận trước thuế ở những tổng công ty hầu hết chỉ đạt chưa tới 0,5%. Tài chính doanh nghiệp nhà nước là một trong những nội dung rất quan trọng của kiểm toán tài chính ngân sách quốc gia. Bởi vì nếu kiểm toán cụ thể, chi li được vấn đề này thì sẽ thấy hiệu quả đầu tư mà doanh nghiệp nhà nước đem lại, tỉ suất lợi nhuận của những đồng vốn mà ngân sách chi ra cho các doanh nghiệp nhà nước là bao nhiêu. Điều này hết sức quan trọng vì với cơ cấu trong tổng sản phẩm trong nước của khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện nay là 38% GDP, trên 60% tổng số tín dụng, phần lớn tài nguyên đất đai, khoáng sản và hầu hết cán bộ khoa học được đào tạo tốt nằm tại khu vực doanh nghiệp nhà nước thì sẽ thấy nếu khu vực nhà nước hoạt động hiệu quả hơn thì kết quả đem lại đối với nguồn thu sẽ tăng rất cao. Thế nhưng trên thực tế, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang thực sự trở thành gánh nặng cho ngân sách quốc gia và nền kinh tế quốc dân. Nếu liên hệ với những con số không tưởng về tỉ lệ nợ lên đến 82% trên tổng nguồn vốn từ khu vực DNNN và tỉ suất lợi nhuận trước thuế chưa tới 0,5% - so với lãi suất đi vay khoảng 10%/năm - và cùng với số lỗ lũy kế lên tới hàng ngàn tỉ đồng ở hàng loạt tổng công ty lớn như Vinashin hay Tổng công ty Dệt may, thì không thể tưởng tượng được lấy tiền ở đâu mà các công ty này có thể tồn tại cho đến giờ nếu không phải là từ nguồn tiền ngân sách cấp trực tiếp hoặc gián tiếp (như vụ “bơm” 750 triệu đôla trái phiếu quốc tế cho Vinashin), và làm sao mà các tổng công ty này có thể trả được nợ trong nước và nước ngoài khi mà tỉ suất lợi nhuận trước thuế thấp hơn 20 lần so với lãi suất đi vay?
Kết quả kiểm toán cũng đã chỉ rõ rằng việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của các bộ ngành chức năng còn nhiều bất cập, yếu kém ở cả ba khâu: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, quyết toán công trình đưa vào sử dụng; việc mua sắm, quản lý tài sản tại các ban quản lý dự án còn lỏng lẻo. Đặc biệt là qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước cũng đã phát hiện và chỉ rõ tình trạng nhiều lệnh phát sinh tại các dự án đấu thầu không đúng thủ tục, không chấp hành các điều khoản thanh toán của hợp đồng, kiến nghị việc thu hồi các khoản vốn sử dụng sai. Ví dụ như chỉ riêng tại dự án quốc lộ 18 đoạn Nội Bài - Bắc Ninh do PMU18 làm chủ đầu tư, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị xuất toán và giảm trừ quyết toán gần 50 tỉ đồng, gần bằng 10% giá trị được kiểm toán. Tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2005 đối với niên độ ngân sách năm 2004, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện, kiến nghị tăng thu, giảm chi, đưa vào quản lý qua ngân sách 4.408 tỉ đồng.
Tuy nhiên, theo các nhà phân tích: nếu dùng kính lúp để soi từng từ trong báo cáo kiểm toán, hầu như không có bất kỳ nhận định hay kiến nghị nào liên quan đến tham nhũng hay thận trọng hơn là “có dấu hiệu của tham nhũng”, mà chỉ có những kết luận chung chung như “tính toán thiếu thận trọng”, trong khi tham nhũng và lãng phí ở khu vực công quá ư là hiển nhiên. Dường như vẫn còn điều gì đó khiến cho Kiểm toán Nhà nước vẫn chưa dám đột phá vào sự thật.
Dẫu sao, việc công khai báo cáo kiểm toán ngân sách quốc gia cũng là một bước tiến lớn của Việt Nam chứng tỏ nền tài chính công đang dần dần đi vào xu hướng minh bạch và công khai hoá. Đó cũng là một yêu cầu tất yếu để Việt Nam có thể hội nhập cùng thế giới và đặt bước chân đầu tiên vào sân chơi toàn cầu WTO. Tuy nhiên, dù đã dám đụng chạm tới một số lĩnh vực khá nhạy cảm nhưng kết luận của Kiểm toán Nhà nước về tình hình ngân sách quốc gia năm 2005 vẫn chưa thực sự làm hài lòng các nhà phân tích và sự mong mỏi của công chúng khi chưa mạnh dạn tuyên chiến với tham nhũng.
01-9-2006

NGỌC CÀNG MÀI CÀNG SÁNG

117 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890-19.5.2007)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự thể hiện hết sức giản dị những tư tưởng và hành động của một nhà yêu nước thương dân mẫu mực. Đạo đức của Người không phải là cái gì cao siêu khiến chúng ta không thể học được mà chính là những việc thật bình thường mà chúng ta vẫn làm hằng ngày bằng cái tâm trong sáng.
Theo Người, nói phải đi đôi với làm, trước hết là phải nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước đối với thế hệ đi sau, của lãnh đạo đối với nhân viên, của đảng viên đối với quần chúng…là rất quan trọng. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, có đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Muốn có được đạo đức cách mạng, thuyết phục được quần chúng, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, phấn đấu quyết tâm theo đuổi và thực hiện những mục tiêu có lợi cho dân. Người nói: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải cố sức tránh”. Để hạn chế những tấm gương xấu làm mất lòng tin của nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thấm nhuần quan điểm “có lợi cho dân” trong mọi suy nghĩ và hành động của mình trong khi thực hiện các chức trách được nhân dân giao phó.
Thế nhưng, trên thực tế hiện nay còn không ít cán bộ nhà nước, ăn lương của dân, nhưng khi làm việc thì chỉ tìm cách “hành” dân tới số, hoặc chỉ làm việc qua loa, đại khái, thiếu minh bạch, thiếu công bằng vì những động cơ vụ lợi, cá nhân. Đó là những biểu hiện đáng báo động về sự thiếu đấu tranh, thiếu rèn luyện phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ đảng viên và của cả hệ thống tổ chức. Đã từng xuất hiện không ít vụ tham ô, tham nhũng, vi phạm pháp luật trắng trợn làm thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng của nhân dân nhưng các đối tượng liên quan nhiều năm liền vẫn được đánh giá là đảng viên ưu tú, là cơ sở đảng trong sạch vững mạnh. Theo nhận xét của các cơ quan chức năng về phòng chống tham nhũng lãng phí, hầu như chưa có cấp ủy đảng nào tự mình phát hiện ra các vụ tham ô, tham nhũng, lãng phí tại đơn vị để đưa ra xử lý cả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải thông qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành chứ nó không có tự trên trời sa xuống. Phẩm chất đạo đức cách mạng cũng như ngọc quý càng mài càng sáng, vòng ròng càng luyện càng trong. Theo Người: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người khẳng định, ở đời ai cũng có cái hay cái dỡ, chỗ tốt chỗ xấu, ai cũng có thiện có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dỡ, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức trước hết phải là một quá trình tự rèn luyện của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức và toàn hệ thống trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong các mối quan hệ xã hội của mỗi người.
Đối với cán bộ, đảng viên lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc họ phải là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi theo. Người nói: “Nếu mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”…Người khuyên cán bộ phải cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, phải thực sự là “đầy tớ trung thành” của nhân dân. Cuộc đời Người đã là tấm gương sáng cho mọi thế hệ noi theo: giản dị, thanh bạch, khiêm tốn, suốt đời chỉ có nỗi lo cho dân, cho nước mau độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Người nói: “Cán bộ đảng, chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất nữa, cũng đều là đầy tớ của nhân dân”.
Trước sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức cách mạng của một bộ phận cán bộ có chức có quyền làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một hành động cấp thiết đáp ứng được lòng mong mõi của nhân dân. Trước hết, theo Tổng bí Thư Nông Đức Mạnh, mỗi ủy viên trung ương Đảng và gia đình của mình phải là tấm gương trong xã hội về cuộc sống trong sạch, liêm khiết để xứng đáng là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.
18-5-2007

TẢN MẠN NGHỀ BÁO

Làm báo, dù ở đâu trên trái đất này, cũng là một nghề thật khắc nghiệt. Hàng năm, tổ chức nhà báo thế giới luôn có những con số thống kê lên đến hàng trăm nhà báo bị giết chết và hàng ngàn nhà báo bị hành hung hoặc bị đe dọa bởi rất nhiều lý do khác nhau. Một cuộc điều tra lao động tại Pháp vào những năm 90 của thế kỷ trước cho thấy, cường độ lao động cao và môi trường làm việc khắc nghiệt của nghề báo chỉ thua thợ mỏ làm việc trong hầm lò. Vậy mà cũng những năm đó, một trong những nghề nghiệp yêu thích nhất của thanh niên Pháp qua một cuộc điều tra xã hội lại chính là nghề báo. Liệu có gì mâu thuẫn không?
Nước ta vừa trang trọng kỷ niệm 30 năm kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từng tấm ảnh, từng thước phim tư liệu về cuộc chiến được các phóng viên chiến trường của các bên ghi nhận lại sau rất nhiều năm vẫn ngay lập tức làm lay động lòng người và tái hiện lại thật đầy đủ những sự kiện tưởng chừng như đã phủ bụi thời gian. Các nhà báo của thời khắc đó đã vượt qua bao nguy hiểm chỉ để ghi lại những khoảnh khắc lịch sử mà nếu như không có họ, rất nhiều người sẽ còn mơ hồ về những gì đã xảy ra. Có người nói rằng nhà báo chính là người chép sử của thời đại, cũng không sai. Nhưng để chép sử một cách trung thực, đúng như những gì mà thời đại nhà báo đang sống diễn ra, thật không phải là chuyện dễ dàng gì.
Khi xã hội càng văn minh, vai trò của nhà báo càng lớn, vị trí của nhà báo càng cao thì lại càng đòi hỏi ở nhà báo những phẩm chất và năng lực xứng đáng hơn. Báo chí Việt Nam trên đà phát triển của đất nước cũng đã "trăm hoa đua nở"...tạo nên một bầu không khí làm báo khá nóng hổi và từng bước nâng dần công nghệ làm báo gần gũi với các nước phát triển. Công chúng báo chí cũng ngày càng đòi hỏi cao hơn, khó tính hơn, đa dạng hơn và cũng thêm tính phê phán hơn. Thị trường báo chí và nguồn lực nuôi dưỡng sự sống cho các tờ báo và người làm báo ngày càng trở nên dồi dào nhưng cũng nghiệt ngã hơn. Nghề báo Việt Nam thực sự đang đứng trước một bước ngoặt về sự phân hóa.
Những đóng góp rất lớn của báo chí Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trong cuộc chiến chống tham nhũng, quan liêu, bao cấp, trong xây dựng nền kinh tế thị trường, xây dựng các điển hình trong thời kỳ đổi mới ... đã được các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước ghi nhận một cách trân trọng. Có lẽ không cần thiết phải nhắc lại ở đây. Nhân ngày Báo chí Việt Nam, có lẽ điều mà những nhà báo tâm huyết với nghề cần nghĩ đến là những điều mình còn chưa làm được hoặc là những điều mà mình thấy trái tai gai mắt nhưng hãy còn xuất hiện lúc nhúc trong làng gây nên bao bức xúc.
Kinh tế thị trường phát triển, báo chí phải đáp ứng ngay lập tức các nhu cầu bức thiết của nền kinh tế năng động này là điều cần thiết. Thậm chí cần phải xem xét xu hướng thị trường hoá báo chí một cách xác đáng và lành mạnh. Để tránh tình trạng một số tờ báo thị trường hóa một cách tự phát, vô trách nhiệm với cộng đồng. Hiện tượng này đã xảy ra với một số tờ báo mà những người lãnh đạo của nó chủ trương xem tờ báo như là một công cụ "rót tiền vào túi riêng" và là bổng lộc để phân phát cho vây cánh. Mỗi bài viết, mỗi vụ việc, mỗi đơn từ...đều phải có "thủ tục đầu tiên" cho "sếp" thì mới đựơc giải quyết cho đăng. Tờ báo trở thành mảnh đất cho thuê để những kẻ cơ hội "cày sâu cuốc bẩm, thâm canh tăng năng suất" trên đó bằng nhiều chiêu thức ghê tởm. Đối tượng thường xuyên "bị" các tờ báo như trên nhắm vào là các doanh nghiệp ăn nên làm ra hoặc có vẻ như vậy. Rầt nhiều doanh nghiệp than phiền rằng họ rất "sợ" phóng viên nhà báo, giúp thì ít mà làm phiền thì nhiều. Thậm chí có những "nhà báo" đeo bám doanh nghiệp rất dai dẵng chỉ để "xin" quảng cáo chứ không phải để thực hiện nghiệp vụ báo chí của mình. Để có thể thực hiện những tờ báo như vậy, lãnh đạo các báo loại đó sử dụng một hệ thống phóng viên, nhân viên và cộng tác viên rất hỗn tạp, từ nhiều nguồn khác nhau và đều đựơc giới thiệu đi liên hệ công tác như là những "nhà báo thực thụ", nhưng mục đích cuối cùng của họ không phải là làm báo hay viết báo vì lợi ích của cộng đồng mà chỉ vì ích lợi riêng tư của họ và của "sếp" họ.
Một đối tượng khác nữa mà các tờ báo dạng này cũng thường xuyên nhắm tới đó là những người tham gia vào các vụ tranh chấp, kiện cáo và các quan chức tham nhũng... Nhắm tới không phải để góp phần giải quyết vấn đề theo pháp luật mà là để làm cho vụ việc rối tung lên theo kiểu..."đục nước béo cò". Trong những trường hợp này có một số "nhà báo" còn làm "cò" để bắt cầu cho các giao dịch ngầm diễn ra. Một số trường hợp khác không ít nhà báo chân chính phải đối mặt với một sự chọn lựa nghiệt ngã viết theo yêu cầu của "sếp" hay viết theo lẽ phải? Một khi "sếp" biên tập yêu cầu anh ta phải viết bênh vực một phe tranh chấp trong khi trên hồ sơ và bằng chứng thực tế mọi sự kiện đều chống lại phe được yêu cầu bên vực. Đằng sau tất cả những chuyện này là cái gì đang xảy ra. Khi một phóng viên dưới quyền từ chối yêu cầu của "sếp", cái gì xảy ra tiếp sau đó chắc không cần phải bình luận. Cũng có không ít trường hợp "nhà báo sếp" bán đứng "nhà báo lính lác" chỉ vì đối tượng bị phê phán trong bài báo do "nhà báo lính lác" viết đã tìm ra địa chỉ của "nhà báo sếp" để mà làm công tác vận động...
Nghề cầm bút là một trong những nghề thật nghiệt ngã vì nó không chỉ đòi hỏi năng lực, tài hoa mà còn đòi hỏi người cầm bút phải có tâm. Nguyễn Du xưa từng thốt lên: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"... là muốn nhằm vào những người cầm bút đời sau. Nghề báo bây giờ phần lớn người ta viết bằng...computer. Nhưng xét cho cùng cũng là nghề cầm bút. Vậy nên các nhà báo cũng cần có một chữ tâm thì ngòi bút mới có thể sáng lên được.
Chữ tâm trong nghề báo nhiều người đã nói, nhiều người làm báo đã biết. Nhưng để có nó thực là khó khăn cùng với sự nỗ lực của bản thân cũng phải được rèn luyện trong một môi trường làm việc nghiêm túc, trong sáng. Hiện nay, việc đào tạo "nhà báo tương lai" chưa chuẩn, môi trường để các "nhà báo tương lai" rèn luyện càng ít ỏi nhưng lại chứa nhiều nguy cơ. Nhiều người không có học hành đầy đủ, không còn biết làm gì bèn đăng ký vào một vài tờ báo linh tinh để làm ... "nhà báo", nhưng suốt ngày đi "chạy quảng cáo" và viết những bài ... tự giới thiệu để lấy "nhuận bút" từ các doanh nghiệp.
Làm thế nào để cho càng ngày càng có nhiều các nhà báo "có tâm" đây?
21-6-2005
(Ghi chú: Bài báo này đã bị gác lại trước khi đưa đi in vào dịp 21-6-2005)