Thursday, May 24, 2007

CĂN BỆNH “VÔ PHƯƠNG CỨU CHỮA” CỦA NGÀNH Y TẾ!

Những tai biến dồn dập sau khi tiêm vacxin viêm gan siêu vi B cho trẻ trong mấy tuần qua đã làm cho các bậc cha mẹ thực sự hoang mang. Những ai đã từng làm cha làm mẹ mới cảm nhận được giây phút ngọt ngào khi bé cất tiếng khóc chào đời và mới có thể thấu hiểu được nỗi đau đớn tột cùng khi phải tận mắt chứng kiến sự ra đi vĩnh viễn của “thiên thần” bé nhỏ một cách đột ngột vì những lý do không đáng có và tệ hại hơn do sự tắc trách của ngành y tế.
Mặc dù hai trong bốn ca tử vong mới đây đã nhanh chóng được kết luận khỏi nguyên nhân do vacxin: bé gái tử vong ở Sơn La là do viêm phổi; bé tử vong ở TP.Hồ Chí Minh là do nhồi máu cơ tim cấp, do thuyên tắc động mạch vành trái. Tuy nhiên, ngành y tế từ lâu đã có quy định 15 điểm để đảm bảo an tòan tiêm chủng, trong đó điểm số 1 là phải khám phân loại trước khi tiêm và phải hoãn tiêm cho những trẻ đang bị sốt, nhiễm trùng cấp tính, có những dấu hiệu bất thường…Trẻ bị bệnh, có những dấu hiệu bệnh lý trước đó mà vẫn tiêm chủng dẫn đến tử vong, trách nhiệm của nhân viên y tế ở đâu?
Sau những tai biến thương tâm của các cháu, Bộ Y tế ngay lập tức “đá quả bóng” cho các nhà cung cấp vacxin: “Vacxin của hãng LG vào VN là do UNICEF và GAVI mua của LG rồi viện trợ cho VN”. Trong khi đại diện của UNICEF thì cho rằng: “Phía VN phải chịu hoàn tòan trách nhiệm trong việc kiểm sóat chất lượng và cho phép vacxin nhập vào VN”. Trước áp lực của dư luận, mới đây Bộ Y tế phải yêu cầu WHO tiến hành thanh tra về “Thực hành tốt sản xuất thuốc” (GMP) của LG tại Hàn Quốc. Bởi vì, “năng lực” kiểm định vacxin của VN tới thời điểm này chỉ là lấy mẫu xác suất từng lô đem tiêm cho chuột. Nếu thấy chuột vẫn bình thường, khỏe mạnh sau khi tiêm là vacxin đạt độ an toàn!
Chưa kể, sự can thiệp của ngành y tế khi có tai biến chậm chạp tới mức khó hiểu. Sau cái chết của hai trẻ ở Hà Tĩnh ngày 23-4-2007 và tiếp theo mấy ca nghi ngờ do vacxin nữa, mãi đến ngày 9-5-2007 Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương và Sở Y tế TP.Hồ Chí Minh mới có công văn gởi tới các cơ sở y tế trực thuộc yêu cầu tạm ngừng vacxin viêm gan siêu vi B do LG sản xuất. Thế nhưng, tới ngày 16-5-2007, Khoa phụ sản Bệnh viện Đại học Y Dược cách Sở Y tế có vài cây số mới nhận được công văn này. Ở các tuyến xa hơn, có lẽ thông tin “hỏa tốc” còn tới muộn hơn nhiều!
Sự tắc trách của ngành y tế đôi khi khiến người dân phải tự hỏi các chương trình, các họat động tác nghiệp của ngành có thực sự hướng tới lợi ích vì cộng đồng hay không? Không chỉ ví dụ về những trường hợp tai biến vacxin nói trên, chuyện giá thuốc leo thang liên tục hàng năm khiến ngành y tế “bó tay” còn nhân dân “trắng tay” mỗi khi bị đau bệnh đã là vấn đề nghiêm trọng. Từ đầu năm 2007 tới nay ít nhất đã có ba lần giá thuốc leo thang ngang nhiên bất chấp những “điệp khúc” rất quyết liệt về sự tăng cường quản lý giá thuốc của Bộ Y tế. Khi căn bệnh “viêm màng túi” của bệnh nhân ngày càng nặng, người ta buộc phải tự hỏi sự “bất lực” trong quản lý giá thuốc phải chăng là căn bệnh “vô phương cứu chữa” của ngành Y tế Việt Nam? Đã gần hai năm sau khi Luật Dược được ban hành các ngành chức năng vẫn chưa cho ra được các thông tư mới để hướng dẫn thi hành việc quản lý giá thuốc. Do “bất lực” hay do những động cơ, lợi ích cục bộ, cá nhân nào đó?
Chưa kể, ngành y tế nước nhà còn “phó mặc cho dân chúng” tự xử các vấn đề của cộng đồng khi làm ngơ trước các hiện tượng kiểu như “thần dược cứu nhân vật”. Không thể thống kê hết có bao nhiêu nạn nhân “tiền mất tật mang” và mất cả tính mạng vì những lọai “thần dược” như vậy đang mặc sức tung hoành mà chẳng thấy ngành y tế có động tĩnh gì đáng kể. Việc vacxin nhập vào VN qua UNICEP đạt chuẩn GMP hay không Bộ Y tế còn chưa biết dẫn tới những tai biến thương tâm, các lọai “thần dược” mặc sức lan tràn khắp hang cùn ngõ hẹp, từ thành thị tới nông thôn không rõ thành phần, tác hại và được bán như kẹo bánh trong tiệm tạp hóa càng chứng tỏ sự tắc trách dẫn tới “bất lực” của ngành này.
Quản lý tắc trách như vậy, người bệnh càng nghèo thêm, nhiều gia đình phải gánh nặng nỗi đau vì những cái chết oan uống của người thân, xã hội bị thiệt hại vì những mất mát phi lý. Chỉ có lợi và thuận tiện cho một số người thiếu trách nhiệm và vô cảm trước số phận của đồng bào mình mà thôi!
25-5-2007

KHÔNG DỤNG ĐƯỢC NGƯỜI TÀI CHÍNH PHỦ CÓ KHUYẾT ĐIỂM!

Hôm qua (20/5/2007) cả nước đã đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII. “Ngày hội của tòan dân” cùng nhau lựa chọn những người xứng đáng làm đại diện cho mình trong cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước lại trùng hợp với thời điểm phát động phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sự trùng hợp nhắc ta nhớ lại tư tưởng của Người về việc tìm kiếm người tài đức ra giúp nước cách nay hơn 60 năm.
Với đầu đề “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu Quốc ngày 20/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nước nhà cần kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”.
Ngày nay nước ta có trên 85 triệu người, người tài đức chắc càng không thể thiếu. Vậy mà, đi đâu cũng nghe than phiền thiếu thốn nguồn nhân lực, thiếu những người biết làm việc mỗi khi phải đổ trách nhiệm cho một sự thất bại nào đó. Chẳng hạn như việc ngành tòa án phải “vơ vét” tới anh lái xe, chị đánh máy trong ngành để đào tạo thành thẩm phán khiến cho không ít phiên tòa kém chất lượng thậm chí vi phạm luật dẫn tới oan sai vẫn còn tiếp tục diễn ra cho tới tận hôm nay. Trong khi mỗi năm có hàng ngàn sinh viên luật ra trường được đào tạo bài bản nhưng hầu như có rất ít cơ hội để “người ngọai đạo” tham gia vào ngành “cầm cân nảy mực” công lý này.
Cách tìm kiếm, lựa chọn cán bộ như vậy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc từ hơn nửa thế kỷ trước và cho rằng đây là những chứng bệnh: “Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho là họ chắc chắn hơn là người ngòai. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. Ham dùng những người tính hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình. Vì những bệnh đó, kết quả là những người kia làm bậy mình cũng bao dung, che chở, bảo hộ, khiến cho chúng càng ngày càng hư hỏng. Đối với những người chính trực thì bới lông tìm vết để trả thù. Như thế cố nhiên là hỏng cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo”.
Để có thể huy động được người tài đức tham gia việc nước trong những hòan cảnh éo le nhất của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh dùng người của mình để thực hiện vai trò đại đoàn kết dân tộc vì độc lập tự do của đất nước. Người tuyên bố tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I ngày 31/10/1946: “Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài. Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ tòan dân đòan kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một Đảng, Đảng Việt Nam. Tuy trong nghị quyết không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết”.
Tinh thần dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc tìm kiếm, tập hợp và sử dụng nhân tài cộng với lời cam kết Chính phủ liêm khiết đã biến thành những chủ trương đúng đắn, những động thái thích hợp thu phục được lòng dân giữa lúc tình hình nước đất nước đang rối ren trước nhiều âm mưu chia cắt của ngọai bang. Thực tế lịch sử cho thấy, Chính phủ không đảng phái, liêm khiết, biết làm việc, gan góc do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu năm 1946 đã đặt nền móng cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này. Âm vang về những tư tưởng và hành động phù hợp lòng dân của những ngày tháng hào hùng đó còn vọng mãi tới hôm nay.
Chưa bao giờ nước ta lại có một cơ hội lớn để có thể vươn vai bước vào cuộc đua tòan cầu một cách thuận lợi như hiện nay. Nếu tình trạng “nhân tài” vẫn tiếp tục “như lá mùa thu” do di chứng dùng người từ những “căn bệnh” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán nghiêm khắc từ hơn nửa thế kỷ trước vẫn còn thì không chỉ ngành tòa án mà là cả đất nước ta sẽ khó thể có hy vọng đuổi kịp các nước trong khu vực chứ đừng nói chuyện “sánh vai các cường quốc năm châu”!
21-5-2007